Phong thủy Việt Nam [Trấn yểm và hóa giải Thăng Long – Hà Nội]

Phong thủy Việt Nam được ghi nhận đầu tiên từ thời Vua Hùng trải qua hàng nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử và được gìn giữ đến ngày nay. Có thất lạc, có chỉnh sửa bổ sung nhưng về cơ bản thì vẫn được coi là gia truyền và không được công bố hoàn toàn ra ngoài.

Đây có lẽ cũng là điều đáng tiếc của những người nghiên cứu về phong thủy tuy nhiên nếu nhìn dưới góc độ khác thì có lẽ bí mật về phong thủy âm trạch cũng nên được giữ gìn để tránh rơi vào tay của những người vô tâm mà ảnh hưởng lớn đến thế cục.

Bản đồ Phong thủy Việt Nam

Đứng trên góc nhìn của người nghiên cứu về phong thủy, hôm nay tác giả xin chia sẻ lại bài viết về Phong thủy Việt Nam quá trình Thăng Long – Hà Nội bị Trấn yểm và được hoá giải. Mời các bạn cùng theo dõi.

Phần 1: Cao Biền trấn yểm Thăng Long [Hà Nội ngày nay]

Cách đây khoảng 1200 năm, nước ta lúc ấy đang nằm trong ách cai trị của nhà Đường, thời vua Đường Trung Tông. Cao Biền làm quan Thái Sử, là một người rất giỏi địa lý, được vua Đường Trung Tông phong làm An Nam Tiết Độ Sứ sang cai trị nước Nam.

Trước khi đi, vua Đường cho gọi Cao Biền vào và nhủ rằng:

“…Công học địa lý, tối vi linh diệu, trẫm văn An nam đa hữu thiên tử quý địa, Công đương dụng lực ngụ mục, hoặc hữu áp chi, triển bình sinh chi kinh luân, thuật thánh hiền chi quy củ, đoạt thần công nhi cải thiên mệnh, nhiên vi tiễu thảo trừ căn, chi đồ thứ cơ vô hậu lệ, tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên, nhất nhất diễn ca lập kiểu, trẫm đắc tiện văn giả..”

Dịch nghĩa

“…Khanh học địa lý tối vi linh diệu, trẫm nghe An Nam có nhiều quý địa kết phát tới thiên tử, sản xuất ra nhiều nhân tài, anh kiệt nên luôn luôn nổi nên chống đối. Qua bên đó, khanh nên tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên và làm tờ tấu biểu kèm theo lời diễn giải các kiểu đất, gửi về cho Trẫm xem trước.

Rồi ở bên đó khanh đem tài kinh luân, đoạt thần công, cải thiên mệnh, trấn áp các kiểu đất đó đi. Đó là cách nhổ cỏ thì nhổ tận gốc vậy, để tránh hậu họa sau này…”

Vua Đường Trung Tông

Cao Biền vâng lệnh sang Việt nam, ông đã bỏ công xem xét. Và nhận thấy rằng có một mạch đất cực lớn thuộc loại Đại cán long xuất phát từ Côn Lôn sơn chạy qua, đến Việt nam chia làm ba chi lớn, trong đó có tới 27 ngôi đất kết phát tới thiên tử, còn lại là hàng nghìn ngôi đất lớn nhỏ kết phát các anh tài kiệt xuất.

Hệ thống Long mạch Châu Á

Ông đã xem xét, ghi chép và diễn ca được 632 huyệt chính, 1517 huyệt bàng thuộc các tỉnh trên lãnh thổ Bắc Việt Nam trong đó:

  • Hà Đông: 81 chính, 246 bàng
  • Sơn Tây : 36 chính, 85 bàng
  • Vĩnh yên, Phúc yên,
  • Phú thọ : 65 chính, 155 bàng
  • Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An : 183 chính, 483 bàng
  • Gia Lâm, Bắc ninh, Đáp cầu, Bắc giang, Lạng sơn : 134 chính, 223 bàng
  • Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình : 133 chính, 325 bàng

(chi tiết các địa danh huyệt kết và diễn ca này xin để dịp khác vì dài dòng quá, tôi không đưa vào đây).

Sau khi thống kê, diễn giải tường tận, Cao Biền làm sớ tấu gửi về cho vua Đường Trung Tông. Bản tấu này có tên là “Cao Biền Tấu thư địa lý kiểu tự” (Tác giả Cao Trung đã giới thiệu được một phần trong một số sách địa lý của ông).

Bản tấu thư này được nhà Đường cất giữ rất bí mật, coi là bí thư.

Ở Việt nam, Cao Biền tiến hành trấn yểm các kiểu đất lớn. Thủ pháp của Cao Biền để trấn yểm là: Bắt đồng Nam, đồng Nữ, mổ bụng moi hết nội tạng, sau đó nhét cỏ bấc vào trong, cho ngồi giả phụ đồng. Sau đó đăng đàn làm phép, khu thần tróc quỷ, gọi các thần linh cai quản các ngôi đất lớn đến nhập đồng. Nếu thấy các tử thi cử động thì liền dùng gươm phép tẩm máu gà, máu chó mà trừ khử cho mất thiêng đi.

Theo thuyết phong thủy âm trạch, một ngôi đất kết là do khí mạch của đất thăng lên (đi lên, trồi lên), và các ngôi đất đó do các thần linh cai quản nuôi dưỡng, đất càng lớn thì thần linh càng mạnh. Cho nên khi trấn yểm, nếu muốn phá được ngôi đất ấy thì trước hết phải trừ được thần linh cai quản, sau đó mới yểm bùa, triệt phá.

Do vậy nếu nói về Địa lý, ngoài việc nghiên cứu lý thuyết, muốn làm thầy, táng được huyệt còn phải có tài khu thần tróc quỷ, sai khiến quỷ thần mới có thể đặt được các ngôi đất lớn. Nếu không có phép ấy, ắt sẽ bị phản hại mà mang họa vào thân.

Cao Biền đã tiến hành trấn yểm các ngôi đất lớn nhưng hầu hết đều thất bại, chuyện đó có dịp sẽ nói sau. Trở về với thế đất thành Thăng long, Cao Biền đã diễn ca ngôi đất như sau:

Thăng Long đệ nhất đại huyết mạch, Đế vương quý địa:

Giao châu hữu chi địa

Thăng long thành tối hùng

Tam hồng dẫn hậu mạch

Song ngư trĩ tiền phương

Tản lĩnh trấn Kiền vị

Đảo sơn đương Cấn cung

Thiên phong hồi Bạch hổ

Vạn thủy nhiễu Thanh long

Ngoại thế cực trường viễn

Nội thế tối sung dong

Tô giang chiếu hậu hữu

Nùng sơn cư chính cung

Chúng sơn giai củng hướng

Vạn thủy tận chiều tông

Vị cư cửu trùng nội

Ức niên bảo tộ long

Cầu kỳ Hổ bất bức

Dịch nghĩa

Đất Giao Châu có một ngôi đất

Thăng long tối hùng mạnh

Ba con sông lớn dẫn hậu mạch, tiếp khí cho mạch là sông Thao, sông Lô, sông Đà

Hai con cá dẫn đường, chính là bãi Phúc Xá ngoài sông Hồng

Núi tam Đảo giữ phương Cấn – Đông bắc

Nghìn ngọn núi quay về Bạch hổ

Muôn dòng nước từ ba con sông Thao, Lô, Gâm đều tụ lại tại nga ba Việt trì, chảy về nhiễu Thanh Long

Thế bên ngoài rất rộng và xa, tất cả cá núi non trên suốt mạch sông Hồng từ Việt trì đến Ninh Bình đều chầu về

Thế bên trong rất mạnh mẽ, đầy đặn

Sông Tô lịch dẫn mạch từ phía sau, bên phải

Núi Nùng đóng tại chính cung

Tất cả núi non đều hướng về rất đẹp

Là nơi tận cùng, hợp lưu của mọi dòng nước từ thượng nguồn dẫn khí mạch về

Là nơi ở của vua chúa (cửu trùng), đất làm kinh đô

Có thể bền vững tới 10 vạn năm

Mặc dù rất ngắn gọn, nhưng bài diễn ca trên đã nói nên cái thế đất của thành Thăng long cực lớn. Các nhà địa lý đời sau phân thế, gọi là Bát tự Phân lưu Hư hoa Hà nội (là nơi nước phân lưu như hình chữ bát).

Trong bài diễn ca trên, ngoài các mô tả chung, cần chú ý tới mấy điểm đặc biệt :

  • Thứ nhất, là vị trí huyệt kết, thông thường định huyệt kết rất khó khăn, nhưng ở đây Cao Biền đã nói rõ “Nùng sơn cư chính cung”, đó chính là nơi huyệt kết chính cung.

Núi Nùng bây giờ không còn nữa, mọi người thường nhầm với gò đất ở trong vườn hoa Bách thảo, theo các nhà khảo cổ đánh giá, có lẽ nó nằm tại vị trí gần khu Hoàng thành cổ, đền Bạch mã là khu vực chân núi.

  • Thứ hai, trong bài diễn ca trên, câu đầu tiên “Thăng long thành tối hùng”, rất nhiều người dịch là thành Thăng long, nhưng cái tên Thăng long là mãi đến đời Lý mới có.

Theo ý kiến các nhà Địa lý, “Thăng long” ở đây có lẽ là nói về cái thế đất, khí mạch thăng lên. Mạch đang đi chìm, đến vị trí này nổi nên kết phát nên gọi là Thăng Long. Và đây cũng là một cơ sở của cái tên Thăng long sau này, chưa hẳn đã là theo truyền thuyết đức Lý thái tổ nhìn thấy rồng bay lên mà đặt tên. Quan điểm này còn nhiều tranh cãi.

  • Thứ ba, Trong bài diễn ca trên có hai câu cuối rất khó hiểu, nhiều người dịch, mỗi người một ý. Nhưng theo đa phần các nhà Địa lý đều thống nhất một ý như sau: (bỏ qua phần văn phạm dịch thuật).

“Cầu kỳ Hổ bất bức, Mạc nhược trung chi đồng” có nghĩa là nếu không bức được Bạch Hổ thì bất quá cũng chỉ là nơi đồng không mà thôi !.

Trong thuật Địa lý, nước dẫn khí mạch về để kết huyệt, Long Hổ hai bên lưu giữ khí mạch cho khỏi thoát, khỏi bị phong suy. Nhưng Thanh long là cát thần, ngôi trưởng, Bạch hổ là hung thần, ngôi thứ, cho nên Long phải dài hơn Hổ, phải nằm bên ngoài Hổ, Long phải khống chế được Hổ thì mới yên, ngược lại là loạn, thứ tất đoạt trưởng, sinh nhân hung ác, phản nghịch, tất sinh biến.

Nếu khí mạch khi nhập huyệt mà lại nghịch hướng, hoặc quá lớn mà tản mát sẽ nuôi dưỡng cả Long và Hổ. Nếu nuôi dưỡng Long thì lành, nuôi dưỡng Hổ thì hung.

Đối với thành Thăng Long, khi nhập huyệt, khí mạch được ba con sông Tô lịch, Kim ngưu, và Thiên phụ (cái tên sông này không biết có chính xác không, tôi chưa tra cứu được) dẫn về, trong đó sông Tô lịch nằm đằng sau, phía Phải hơi chệch đường, nuôi dưỡng cho Bạch hổ. Ba con sông này tập trung tại khu vực cuối đường Bưởi gần Hồ Tây, là chỗ mà người ta đã đào được trận đồ bát quái (đây chính là nơi Thủy Khẩu của đại huyệt)

Nhận thấy đây là một Quý địa, là nơi đế đô có thể bền vững tới 10 vạn năm, nếu trị được ngôi đất này có thể làm đất kinh đô được. Cho nên Cao Biền ra tay trấn yểm, không phải với mục đích là triệt phá thế đất Thăng long mà mục đích là khống chế khí mạch không cho nuôi dưỡng Bạch hổ nữa (Thực ra có muốn triệt phá cũng không thể đủ sức, đủ tài làm việc này, vì ngôi đất này cực lớn).

Nơi trấn yểm được ông chọn là Thủy khẩu, nơi con sông Tô lịch dẫn khí mạch về bên Bạch Hổ. (xin chú ý đây là nói về nội Long và nội Hổ, vì thế đất Thăng Long có nhiều tầng Long Hổ). Với mục đích là chọn đất đặt Kinh Đô, nhằm đô hộ lâu dài đất Giao Châu.

Khi Cao Biền trấn yểm, có lẽ do linh khí núi sông linh thiêng, do anh linh bao đời của dòng giống Lạc Hồng bất khuất đã hiển linh xuất thánh, không để cho Cao Biền thực hiện ý định đóng đô lâu dài nên đã ra sức cản phá, kết hợp với nhân dân lúc bấy giờ tìm mọi cách ngăn cản cho nên Cao Biền đã thất bại. Ông đã không xây dựng được nơi chính huyệt, Cao Biền đành chuyển ra bên cạnh đóng đô nơi thành Long Biên, là tòa thành đã có từ trước.

Cũng chính vì vậy mà sự nghiệp của Cao Biền ở nước Nam đã không kéo dài được. Và thành Long Biên sau này cũng chỉ là một thành nhỏ, trước đây không một đời vua nào đóng đô ở đây được lâu bền cả, như Mai Thúc Loan, Lý Bí … cũng đều đóng đô ở Long biên, nhưng chỉ được thời gian rất ngắn ngủi.

Các vị thần được phong là Thăng long Tứ Trấn đã có công giữ thành, giữ đất, đến nay vẫn được nhân dân Nam Việt biết ơn, thờ phụng. Công đức của các ngài gắn liền với đất Thăng Long – Hà Nội. Và các ngài đến nay vẫn giúp cho cháu con nước Việt gìn giữ một Kinh thành với thế đất nổi danh quý địa Bát tự phân lưu

Bản đồ Thăng Long tứ trấn

Thăng Long Tứ Trấn là gì

Thăng Long tứ trấn là khái niệm xuất hiện trong dân gian để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long, hoặc bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long.

Các ngôi đền trong Thăng Long tứ trấn là:

Phần 2: Tấu thư địa lý kiểu tự

Quay lại chuyện cuốn “Cao Biền tấu thư Địa lý kiểu tự”. Cuốn sách này sau khi được dâng về cho Đường đế, đã được lưu giữ trong kho sách cấm của triều đình, xếp vào hàng bí thư.

Trải qua các đời Đường, Tống….đến thời nhà Minh, với danh nghĩa “Phò Trần Diệt Hồ” nhà nước phương Bắc lại đem quân xâm lấn nước ta. Chỉ huy cuộc chiến tranh này là ba danh tướng: Trương Phụ, Mộc Thạch, Hoàng Phúc.

Trong đó có Hoàng Phúc là một tướng rất giỏi, uyên thâm kỳ môn độn giáp, đặc biệt là Địa lý. Ông nghiên cứu rất nhiều, và đã lấy được từ trong kho sách cuốn Cao Biền tấu thư. Lần này sang Việt Nam ông mang theo với dụng ý kiểm chứng lại các ngôi đất kết mà Cao Biền đã nêu.

Nhưng trong cuộc chiến tranh này quân Minh đã thất bại, Đại quân sư Nguyễn Trãi đã dùng kế “vây thành diệt viện” chém đầu Liễu Thăng, bức hàng, bắt sống toàn bộ tướng lĩnh trong đó có Hoàng Phúc và cuốn Tấu thư địa lý này đã được thu hồi từ tay Hoàng Phúc.

Nguyễn Trãi là người uyên thâm, trọng nhân tài, biết tiếng Hoàng Phúc nên không dám khinh mạn, mời vào tiếp chuyện. Khi tiếp chuyện Nguyễn Trãi rất khâm phục tài học của Hoàng Phúc. Khi bàn luận về Địa lý, Hoàng Phúc có nói với Nguyễn Trãi rằng:

Nhà Hoàng Phúc được ngôi đất kết, có cái xá văn tinh cứu giải nên không sợ hung hiểm, nếu đúng như Địa lý thì không quá 100 ngày nữa Hoàng Phúc sẽ được tha.

Hoàng Phúc còn nói với Nguyễn Trãi rằng, ngôi đất nhà ông ở Nhị Khê, Thượng Phúc, Hà Đông có trong bản tấu thư của Cao Biền, theo sách này, đất nhà Nguyễn Trãi kết phát công hầu khanh tướng, nhưng long lai đoản mạch, tại cung Mùi (ứng với ngôi thứ thất) có cái thương sa đâm vào nên rất độc, có thể phạm hình thương quan ngục, nếu không chữa ắt sẽ có ngày tai họa.

Cao Biền đã mô tả thế đất như thế này :

Nhị Khê Thượng Phúc – Thôn Nhị Khê, Thượng Phúc, Hà Đông

Mạch kết bình dương – Mạch kết dưới bình dương (đất đồng bằng)

Sơn như ngư đại – Núi như cá lớn

Thủy như loa tràng – Nước như cái loa dài

Tam môn giới khí – Thủy khẩu ba đường giới khí

Cửu khúc trụ đường – Chín khúc nước trụ tại minh đường

Tiền hô hậu ủng – Tiền hô hậu ủng (Nguyễn trãi cùng Lê lợi khởi nghĩa, kêu gọi nhân dân đều được ủng hộ là vì vậy)

Hổ phục long hàng – Hổ phục long hàng (Bắt sống tướng giặc, chém đầu Liễu Thăng là vì vậy)

Thế xuất khanh tướng – Thế đất xuất công hầu khanh tướng

Quyền chưởng binh lang – Nắm quyền điều khiển binh lang

Hiềm sơn lai đoản mạch – Nhưng vì Long lai đoản mạch

Ly biệt tha hương -Nên sẽ ly biệt tha hương (cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt sang Trung Quốc, không về)

Khủng bị hình thương -Sợ là sẽ bị phạm hình thương (đời sau Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc)

Quả nhiên, sau đó để thực hiện chính sách bang giao, Lê Lợi đã cấp thuyền cấp ngựa cho quân Minh giải giáp về nước, đúng như lời Hoàng Phúc nói.

Còn Nguyễn Trãi, sau vì cái án Lệ chi viên mà bị tru di tam tộc, kỳ lạ thay nó lại gây ra bởi sự liên quan đến Thị Lộ, người thứ thiếp của ông, đúng như lời Hoàng Phúc đã nói. (Ngày nay ngôi mộ đó vẫn còn, tôi đã có dịp đến tận nơi quan sát, thế đất đúng như mô tả.

Trong cái nạn tru di tam tộc, có một người vợ thứ của Nguyễn Trãi đã nhanh chân chạy thoát sang đất Lào, sinh một người con trai, sau 22 năm, vụ án sáng tỏ, dòng họ Nguyễn được minh oan, con cháu được tìm về, người con đó được bổ làm quan và trên đường đi sứ sang Trung Quốc đã bị đắm thuyền trên hồ Động Đình (nhân gian đã thêu dệt câu chuyện Rắn Trắng báo oán để lạc hướng quần chúng về vụ án oan khiên nhất lịch sử này).

Ngày nay con cháu của Nguyễn Trãi còn sót lại sinh sống ở Chí Linh, Hải Dương, vẫn cứ mỗi đời có ít nhất một người chết vì dao kiếm, súng gươm, tai nạn thương vong, vẫn ứng với lời tiên đoán của Cao Biền).

Cuốn sách “Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự” vì thế mà được lưu truyền trong nhân gian, đã có một số người tìm được huyệt đặt mộ mà từ đó phát đến công hầu khanh tướng.

Tất cả những địa danh ấy, những ngôi đất ấy đến nay vẫn không thay đổi nhiều. Các thầy địa lý ngày xưa đã sao chép ra nhiều bản, đến nay vẫn còn nhiều quyển chép tay còn sót lại trong các tủ sách gia đình của một số dòng họ.

Phần 3: Nhà Lý đặt thành Thăng Long

Lý Công Uẩn, người làng Cổ Pháp (Bắc Ninh). Xung quanh ngài có rất nhiều truyền thuyết, không dám lạm bàn. Chỉ xin bàn đến cái việc Nhà Lý dời đô ra Thăng Long.

Lý Thái Tổ được dạy dỗ bởi hai nhà sư: Lý Vạn Hạnh và Lý Khánh Văn (hai anh em ruột). Đây là hai đại tôn sư rất uyên thâm, gồm cả tài đức, đều được phong Quốc sư. Có lẽ trong quá trình nuôi dạy Lý Thái Tổ, hai vị tôn sư này đã nhìn thấy cái chân mệnh thiên tử của Ngài nên đã có hướng cho một triều đại mới. Bởi vậy mà ngay từ khi còn nhỏ tuổi, Lý Đế đã được đào tạo rất công phu kiêm cả văn võ.

Cái quá trình chuẩn bị cho ngài lên ngôi đã được sắp đặt rất kỹ càng bằng các biện pháp gây thanh thế trong lòng dân chúng bằng các bài sấm ký, đồng giao, bằng các điềm báo thiên nhiên, chỉ qua một sự việc về cây gạo làng Dương lôi (nơi Lý Thái Tổ sinh sống khi chưa nhập kinh) bị sét đánh, trong thớ gỗ xuất hiện bài thơ nói rằng Nhà Lý sẽ thay nhà Lê, đã minh chứng cho một sự chuẩn bị rất chu đáo của hai nhà sư Lý Vạn Hạnh và Lý Khánh Văn (cái này thuộc về lịch sử, không bàn nữa).

Nhưng đáng chú ý là việc chuẩn bị cho công cuộc dời đô của nhà Lý. Nhà sư Lý Vạn Hạnh là một người cực giỏi địa lý, ngài đã nghiên cứu rất nhiều về thế đất thành Thăng Long. Lẽ tất nhiên Ngài phải biết cái thế đất ấy muốn dùng được thì phải trấn được Bạch Hổ mới có thể lập kinh đô.

Chính vì vậy, sau khi nên ngôi, Nhà Lý đã cho dời đô ra Thăng Long. Trong quá trình xây dựng thành Lý Vạn Hạnh đã tiến hành trấn yểm ở nhiều điểm, nhưng điểm cốt lõi vẫn là nơi mà trước kia Cao Biền đã thất bại – đó chính là Thủy Khẩu.

Nếu nghiên cứu về địa lý thì ai cũng biết rằng vị trí của Thủy Khẩu quan trọng như thế nào đối với một ngôi đất, nó đóng vai trò như cái yết hầu của con người, bởi vậy việc trấn yểm nếu thực hiện tại vị trí này thì có thể khống chế cả cuộc đất.

Nói như vậy nhưng nếu trấn yểm tại Thủy Khẩu là nơi khí tụ trước khi đổ vào minh đường để nuôi dưỡng huyệt mạch thì sẽ vô cùng khó khăn vì nơi ấy khí lực cực mạnh. Một ngôi đất tốt, nhưng nếu thủy khẩu bị chặn lại, nước không đem khí mạch đến đc, ắt sẽ sinh họa ngay.

Vì thế nên có câu phú “đăng sơn tầm tổ tông, đáo xứ vấn thủy khẩu” đó là điều đầu tiên phải làm). Việc Lý Vạn Hạnh thực hiện trấn yểm như thế nào, đó là một điều không thể nói. Nhưng chúng ta chỉ cần biết rằng ông đã thành công. Ông đã trị được con sông Tô lịch, khống chế được Bạch Hổ. Từ đó đất Thăng Long đã trở thành đế đô muôn đời cho các triều đại, ngày càng hưng thịnh.

Việc làm này của sư Lý Vạn Hạnh được thành công cũng là nhờ thần thiêng sông núi, giúp cho con cháu nước Nam trấn giữ được kinh thành, để mà có được cái thế đất Anh Hùng Vạn Cổ. Đấy là hồn thiêng Đất Việt đã giữ gìn ngôi đất bao đời để trao lại cho cháu con Lạc Việt, mà không cho kẻ ngoại bang xâm phạm.

Quay lại với các sự việc về trận đồ bát quái được tìm thấy, các nhà khảo cổ đã chứng minh rằng các di vật tìm thấy là thuộc đời Lý. Vì vậy, quan điểm cho rằng trận đồ này do Cao Biền lập là không có cơ sở, hẳn nhiên không phải là các di vật này “sau này mới rơi xuống” như một số quan điểm.

Nên biết rằng từ khi Cao Biền tiến hành trấn yểm đến đời Lý là khoảng hơn 200 năm – sông lấp sóng bồi, vậy mà sao khi phát hiện, các di vật đều cùng một niên đai, đều cùng một địa tầng – đó là một điều vô lý.

Nhưng nếu nó là tác phẩm của Lý Vạn Hạnh thì hoàn toàn có lý, bởi vì như trên đã dẫn, Nhà Lý khi dời đô ra Thăng Long đã xây dựng tòa thành mới mà không dùng thành Long Biên như các thế hệ trước.

(Nói thêm về phần địa lý : Khi phân tích kiểu đất Nam Việt, Có nhiều quan điểm cho rằng Sông Hồng là Thanh Long là chưa đúng. Chúng ta biết rằng Thanh Long hay Bạch Hổ đều là núi, là đất, là nơi ôm giữ khí mạch cho huyệt. Còn sông suối chỉ là huyết mạch, dẫn khí nhập huyệt. Khi long đình nhập huyệt, khí chỉ tại minh đường để từ đó nuôi dưỡng huyệt kết nên khi tầm long tróc mạch phải tìm đến chỗ mà có “long đình, chỉ khí” mới là chân huyệt.

Còn riêng thế đất Thăng Long, ta biết rằng Côn lôn sơn là thái tổ sơn, khí mạch xuất phát từ đây, đi xuống phía Nam, qua hai thiếu tổ sơn là Vân Lĩnh, Đan Sơn, đều thuộc tỉnh Vân Nam, sau đó chuyển về Việt Nam, chia ba chi : Quảng Ninh là tả chi, Thăng Long là trung chi, Thanh Nghệ là hữu chi (đất Thanh Nghệ lại chia làm ba tiểu chi nữa), kết tại Thăng long là chính huyệt.

Nếu quan sát một cách tổng thể trên bản đồ vệ tinh, ta sẽ nhìn thấy ngay đường đi của mạch, khi qua biên giới, mạch đi rất trực, tiến thẳng xuống phía Nam, kết tại Hà Nội. Mà theo như cụ Tả Ao thì “Mạch thô đi chẳng khép vào, vốn đi một chiều ấy mạch phát dương”.

Ta đã biết, mạch có MẠCH ÂM, MẠCH DƯƠNG. Nếu mạch phát âm cơ thì là đất để mộ, nếu mạch phát dương cơ thì là đất làm nhà, làm doanh trại, làm thành phố, hoặc lớn như Thăng Long là làm kinh đô.

Mô tả về điều này sách viết : “Tiên vấn tổ tôn giả, tổ giả, đột khởi nhất sơn vi tổ, phân hành thiên chi vạn điệp, như Côn lôn sơn đột khởi vi tổ sơn, thị dã. Tôn giả ly tổ biệt khởi nhất sơn vi tôn, phân hành Đông ngung, Tây lũng, như Vân Lĩnh, Đan sơn giáng Nam, thị dã”

Dịch nghĩa: Trước tiên phải hỏi đến tổ tôn, Tổ là một ngọn núi đột khởi lên, rồi phân hành ra ngàn vạn chi nhánh, như núi Côn Lôn một mình cao vọt nên là Tổ sơn. Tôn là mạch tự khi rời Tổ sơn rồi cũng lại cao vọt lên riêng biệt, phân ra Đông ngung, Tây lũng, như núi Vân lĩnh, Đan sơn cao vọt nên rồi đổ xuống phía Nam vậy). Vận khí chưa thay đổi nhiều lắm đâu. Chưa một quốc gia nào mà thủ đô phát triển sang tả ngạn nhiều hơn bên hữu ngạn cả (Tất nhiên còn tùy địa thế).

Cho dù khí lực của sông bên trên sông Hồng (Tôi không nhớ tên) có vượng lên chăng nữa thì sự phát triển lên tả ngạn luôn là điều phải rất cân nhắc. Tất cả những công trình đô thị lớn bên tả ngạn sông Hồng rất ít khi thành công và hoàn mỹ.

Hãy nghiệm xem. Về dòng sông Đà, ta đã biết có hai công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á. Đó là Nhà máy thủy điện Hòa Bình với công suất 1920MW, Thủy điện Sơn La với công suất 2400MW. Xét về mặt địa lý, khí thủy dẫn khí nhập huyệt, thủy cường thì khí thịnh.

Nhưng trong địa lý, nếu khí mà quá thịnh thì không tốt. Khí thịnh thì phát nhanh, phát mạnh nhưng hay cương ngạnh và thường không bền.

Chính vì vậy trong khoa địa lý có nói : Đối với sơn : “Nhược kiến Tổ tôn tủng bạt, nhất định tử tôn tranh hùng…” (nếu thấy tổ sơn mà cao vút, sắc nhọn thì nhất định con cháu sẽ tranh hùng). Sở dĩ có điều này là bởi vì nếu Tổ sơn mà cao vút, nhọn sắc tức là khí đã quá thịnh, con cháu đời sau sẽ tranh hùng, cương ngạnh.

Còn đối với thủy : “Thanh kỳ, khuất khúc vi quý, thô cường, trực trọc vật thủ…” (nước chảy mà trong trẻo, thanh kỳ, đường đi lai khuất khúc quanh co là quý, còn nếu thô mạnh, chảy thẳng, đục thì không nên dùng)….

Trở lại vấn đề khí mạch của thủ đô Hà Nội : Trong ba nhánh sông dẫn khí nhập huyệt của Hả Nội thì dòng sông Đà là cường thịnh nhất, hung dữ nhất. Vì vậy, khi xây dựng hai công trình thủy điện trên sẽ trị thủy sông Đà, làm cho nguồn khí mạch điều hòa, bớt hung hãn và đương nhiên là sẽ tốt hơn trước.

Bởi vì hai công trình trên không hề ngăn chặn dòng nước sông Đà, mà chỉ là điều tiết dòng nước sông Đà thôi. Ngoài ra một nhánh sông nữa là sông Lô, chúng ta sắp có một công trình thủy điện Tuyên Quang, cùng là một điều tốt cho khí mạch của Thủ Đô khi nó được điều hòa hơn, dồi dào hơn và…hiền lành hơn. Và trong tương lai thì dòng sông Gâm cũng sẽ được xây dựng thủy điện….

(nói thêm về khí mạch, cái quý nhất của khí mạch là 3 điểm : chung tụ, nhuyễn nhược và dồi dào. Vì vậy trong các sách địa lý của cụ Tả Ao có nói “Thắt cuống cà, sa đít nhện” hoặc “Thắt cuống cà phì ra mới kết”

Nghĩa là Long lai nếu trước khi nhập huyệt mà thắt lại để khống chế bớt khí mạch cho huyệt, làm cho khí mạch rót từ từ vào huyệt thì rất tốt).

Hệ thống Kinh, Mạch, Lạc, Huyệt

1. Huyệt là gì?

Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ.Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ.Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh, Mạch, Lạc nằm ở những nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt. Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt.

Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, trong toàn bộ cơ thể con người.

Trong cơ thể có một mạch Nhâm, một mạch Đốc, 12 đường Kinh chính, cộng thành 14 Huyệt Kinh có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt.

Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc tiếp nhận Thiên khí, Địa khí, Thời khí, có tính chất Âm Dương Ngũ hành. Nhờ hệ thống trên, ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận. Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh.

xem thêm: 4 bước tập thở của khí công để khoẻ mạnh và sống lâu

2. Kinh là gì?

Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia.Các đường đó đi lắt léo,chồng chất qua rất nhiều chỗ;liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương ,Ngũ hành,liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống,tinh thần con người,vì vậy mà gọi là Kinh.

3. Mạch là gì?

Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra.Nó đi khắp nơi,phân chia ra nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc.

4. Lạc là gì?

Nó là các đường của Kỳ huyệt , nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt ,chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chữ An lạc?

Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.

  • Nội kinh: Là phần kinh của 14 đường Kinh, Mạch chính, quan hệ với Tạng phủ,chuyển dần sang các chi nhánh,Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh liên quan đến các tương quan,phản xạ,phát sinh Ngoại giao cảm, giữa Linh hồn, Vía, Phách và thể xác.
  • Ngoại Kinh: Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp.

Ví dụ: Có người đã bị chết lâm sàng, tiêm, chích thuốc theo Tây Y không được, nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm, day, châm cứu vào Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được. Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết, trở về nhập vào cơ thể.

Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể. Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén,rất công hiệu, có thể cứu mệnh con người, trong nhiều trường hợp nguy cấp. Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này, song họ vẫn cho đó là Thần bí.

Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm, Đốc; 12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc, và vô số Huyệt. Xin nói thêm về Huyệt như sau: Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội, đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm. Có các loại Huyệt là Du huyệt,Mộ huyệt,Nguyên huyệt,Lạc huyệt,Khích huyệt..

Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật. Theo người viết được biết: Có 36 Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người. Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế, tật nguyền, rất khó chữa trị.

Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh , Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người.

Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc, gắn kết lục phủ , ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn,mạnh thì dẫn đến tử vong ,nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.

Theo nguyên lý “Con người là tiểu Vũ trụ “thì Âm Dương ,Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt. Các đường Kinh thứ nhất: Can -Đởm, Tâm -Tiểu trường, Tỳ -Vị, Phế -Đại trường,Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.

Ngoài ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu. Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính. Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình.

Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương,còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm. Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm. Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa.

Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu,Trung tiêu,Hạ tiêu. Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với Bán cầu não Phải ),nhánh phải thuộc Âm ( đối ứng với Bán cầu não trái ). Từ đó các Huyệt được chia ra: Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm.

Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên – Địa – Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long, mạch như sau:

Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời ,Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này ).

Phong thủy Việt Nam trấn yểm và hoá giải

Theo học thuyết phong thủy thì yếu tố hàng đầu đó chính là cân bằng Âm – Dương. Trong đó Thiên là dương, Địa là âm. Và để cân bằng được Âm Dương thì Nhân đóng vai trò trung gian.

Con người tính toán, bố trí, sắp xếp để có được phong thủy tốt nhất (cân bằng Âm Dương) cho. Dựa vào mỗi cá nhân khác nhau mà điều chỉnh để có được phong thủy tốt nhất, hài hoà nhất.

1. Về Thiên trong phong thủy

Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng) trên các đỉnh núi cao. Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người. Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian,với con người khác nhau.

Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời,được đại diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này).

Phải chăng 9 Sao và Hạn (La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hớn, Kế Đô, Thái Âm, Mộc Đức Tam kheo, Ngũ hộ, Thiên tinh, Toán tận, Thiên la, Địa võng, Diêm vương, Huỳnh tuyền) ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời đối với con người.

Còn Cửu tinh đồ là đại lượng đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất. Ngoài ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất.

2. Về Địa trong phong thủy

Chấp nhận có Địa khí (Còn gọi là Long) chảy theo các mạch nước, tụ lại và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng, Dương giáng). Vì vậy danh từ THĂNG LONG ở đây nghĩa là nơi Địa khí thăng lên và kết huyệt. Đây cũng chính là ý nghĩa của THĂNG LONG chứ không như lời đồn đại Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG.

Ta cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG – Thủ đô Hà Nội bây giờ phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm – Địa khí .

3. Về Nhân trong phong thủy

Nhân trong phong thủy để xác định được vị tốt, hướng tốt. Nhân trong phong thủy cũng tính toán, bố trí và điều chỉnh để định Huyệt cho Âm phần, Dương phần. Từ đó tính ra Họa, Phúc của từng con người.

4. Phong tthủy Việt Nam [trấn yểm và hoá giải]

Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ. Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau:

Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình rồi tới dãy Tam đảo dọc theo sông Tô lịch ngày xưa, đi tiếp tới Cổ loa, kéo dài đến sông Đuống, sông Thái bình rồi ra tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long.

Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường. Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ. Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương. Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương. Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.

Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau: Xuất phát cũng từ những dặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình đi tới dẵy núi Ba vì, qua cầu Hàm Rồng, theo sông Lam và dẫy núi Hồng lĩnh đổ ra biển.

Nối các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Bạch hổ thuộc Âm, do vậy Long mạch này có hành khí Âm. Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhánh Thanh long, Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ.

Nhánh Thanh long sau khi bị Cao Biền trấn yểm và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều.

Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện.Theo các cổ thư chữ Hán, cung Đoài có độ số là 7 – ứng với phương Tây .Đây là độ số của Lạc thư.

Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc, theo đúng độ số của phương Tây. Tuy nhiên ,theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú Thọ – Kinh đô của các Thời đại Hùng vương) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy.

Theo người viết, trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thiên Bát quái mới chính xác.

Khi đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ. Theo chiều từ phương Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông nam, … tới Tây, Tây Bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau: 1-8-3-2-7-4-9-6. Ta vẫn biết rằng:

  • 1 – là hành Dương Thủy.
  • 6 – là hành Âm Thủy.
  • 8 – là hành Âm Mộc.
  • 3 – là hành Dương Mộc.
  • 2 – là hành âm Hỏa.
  • 7 – là hành Dương Hỏa.
  • 5 – là hành Dương Thổ. 10 -là hành Âm Thổ.
  • 4 – là hành Âm Kim.
  • 9 – là hành Dương Kim.

Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau :Thủy (6 – 1) sinh Mộc (8 – 3 ) sinh Hỏa (2 – 7) sinh Thổ (10 – 5) sinh Kim (4 – 9) và lại trở về hành Thủy.

Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay. Điều quan trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này, thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong sử sách.

Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch, sau khi Cao biền Trấn, yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại, kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này, dòng sông Tô, trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng.

Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại. Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ – QUẬN CẦU GIẤY – HÀ NỘI, theo thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy Lâu có dòng Nghịch thủy) chẩy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng.

Như vậy hiện nay, dòng chẩy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa). Nhánh Thanh Long thuộc Dương khí, đã bị ngăn, bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.

Ngược lại nhánh Bạch Hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện, ngoài trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An có một con rồng (Long mạch ) nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.

Hai nhánh Thanh Long và Bạch Hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn, nay nhánh Thanh Long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ.

Theo nhận xét của người viết, kể từ đó về sau này thành Đại La bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ.

Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng: Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao Biền, các vị Vua, Tướng tài giỏi, các bậc hiền tài của đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra. Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.

Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này, người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân, tiền bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.

Các câu hỏi đó là:

  1. Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên, Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung ?
  2. Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không?
  3. Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo?
  4. Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không?
  5. Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này.

Trong bài viết, Tôi có sử dụng một số Tài liệu của Giáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG, ĐOÀN VĂN THÔNG, Ẩn sĩ PHƯỢNG – Nghệ An, Ẩn sĩ Lý Thiên Hương – Đức Thọ Hà tĩnh và một số tài liệu của các Ẩn sĩ tỉnh PHÚ THỌ

Xin trân trọng cảm ơn!

Luận bàn về độ số (ý kiến cá nhân)

Theo Thượng tọa Thích HUỆ Xướng – Chùa Giác Lâm – Quận Tân Bình -TP.HCM. Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã viên tịch khoảng hơn một tháng sau khi làm lễ cúng HÀN LONG MẠCH tại sông Tô Lịch, nguyên nhân chết theo Y học là xuất huyết não. Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH là trụ trì chùa Hương.

Giải thích thêm: Mỗi một Huyệt vị có thời gian đóng và mở riêng của nó -Tức là thời gian ứng nghiệm. Khi muốn tác động vào một Huyệt vị nào đó cần phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác dụng.

Khi dùng thủ thuật Trấn (là đè lên), Yểm (là chôn xuống) cho thay đổi kết cấu của cả một vùng đất để có thể xây dựng cả một Kinh thành thì sự hiểu biết phải vô cùng chính xác.

Tiếc rằng kinh nghiệm này không được phổ biến rộng rãi nên thất truyền lần lần. Mà đó cũng là một điều may mắn cho Nhân loại vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái đất chúng ta sẽ đi về đâu? Tuy nhiên trong Lịch sử cũng chỉ ra rằng có rất nhiều người có khả năng đó.

Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết Lịch sử -Tất nhiên vì chỉ có những người Trấn yểm mới biết, những sự việc được ghi nhận là do kể lại nên mất tính chất trung thực.

Tuy nhiên, không thiếu dẫn chứng trong lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó. Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn hoặc yểm sau này. Đó là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó.

Theo nhận xét của riêng người viết, khu vực đó thuộc phía Tây của La Thành nên có hành Khí là Dương kim và độ số của nó là 9. Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn yểm Cao biền cũng biết rất rõ điều đó, chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây.

Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay, phương Tây thuộc Kim và có độ số theo Lạc thư là 7. Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao biền sẽ sai theo.

Theo người viết được biết, tại một số vùng của đất Phong châu ngày xưa, các nhà Phong thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái.

Như vậy theo người viết, phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác. Lạc thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà, Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ.

Để có thể trấn được khu vực bị hở của Long mạch, theo thiển ý của người viết, nên dùng hình thức Trấn -Tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm dương Ngũ hành.

Ta có thể dựng một cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt, hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút đạo Bùa. Theo những tin tức gần đây nhất, sự phát sinh các việc kỳ lạ như đã nêu ở trên, cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra.

Như vậy ta thấy rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa. Nguyên nhân là Khu vực đó qua thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm ), luồng Nguyên khí đã có sự thay đổi, cũng không loại trừ đã có sự trấn, yểm lại của một số nhà Phong thủy tài ba giấu mặt.

Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những Huyệt đạo bị Trấn yểm của các nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh.

Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không) mà kể từ ngày đạo Bùa được Khai mở, vùng dọc theo nhánh Thanh long đã phát triển rất mạnh mẽ. Từ rất lâu đời, các vùng này là khu vực Nông thôn lạc hậu, nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.

(nguồn: sưu tầm)

Qua bài viết: Phong thủy Việt Nam [Trấn yểm và hóa giải Thăng Long – Hà Nội] nếu vẫn còn thắc mắc hoặc cần tư vấn, hỗ trợ. Quý khách vui lòng liên hệ theo thông tin dưới đây:

Chuyên:  và

Cám ơn bạn đã theo dõi bài viết! Vui lòng chia sẻ bài viết nếu bạn thấy thông tin ở trên sẽ hữu ích với nhiều người.

Chúc bạn buổi chiều tốt lành!